nobitasan94
G-Mod
Thú nuôi :
Clan : ĐÔRÊMON
Y!M : i don't no
Telephone Number : I don't no
Họ và tên : ĐDT
Tổng số bài gửi : 181
Ngân hàng : 6552
Birthday : 09/04/1994
Ngày Tham Gia : 15/06/2009
Age : 29
Đến từ : Trên Trời Rơi Xuống
|
Tiêu đề: Hàng long thập bát chưởng Wed Jun 17, 2009 3:15 pm |
|
|
|
|
|
|
|
Hàng long thập bát chưởng (Mười tám thế chưởng pháp hàng phục được rồng) là tên một loại tuyệt kỷ võ thuật xuất hiện trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung, nguyên có tên là Giáng long thập bát chưởng (降龍十八掌) và sau đã được thay đổi. Được mô tả trong cái bộ truyện kiếm hiệp gồm Thiên Long bát bộ, Anh hùng xạ điêu, Thần điều hiệp lữ và Ỷ thiên Đồ long ký, Hàng long thập bát chưởng là 1 trong 2 tuyệt kỷ của Cái Bang bên cạnh "Đả cẩu bổng pháp".
Đả cẩu bổng pháp là bộ bổng pháp (côn, gậy) chỉ có bang chủ đời trước đích thân truyền thụ cho bang chủ đời sau, còn Hàng long thập bát chưởng thì chỉ có những đệ tử cái bang từ hàng 9 túi trở lên mới được truyền dạy và mỗi người chỉ được dạy một vài chiêu chứ không được học hết cả pho chưởng pháp, ngoại trừ các đồ đệ truyền nhân của bang chủ.
[sửa] Xuất hiện trong truyện Theo truyện Anh hùng xạ điêu, Hàng long thập bát chưởng đã vang danh thiên hạ từ lâu, song đến đời Hồng Thất Công, bang chủ thứ 18 của Cái Bang, thì mới thật sự uy trấn giang hồ, và đến đời Quách Tĩnh (đồ đệ của Hồng Thất Công) thì được biết đến rộng rãi nhất.
Theo truyện Thiên long bát bộ, một nhân vật nữa làm cho Hàng long thập bát chưởng đi vào huyền thoại là Tiêu Phong, một nhân tài kiệt xuất của Cái Bang. Với tấm lòng hào hiệp, chính nghĩa, không chịu khuất phục cường địch, Tiêu Phong cùng với Hàng long thập bát chưởng là nỗi khiếp sợ của tà môn ngoại đạo. Trong bản chỉnh sửa mới nhất của Thiên Long Bát Bộ, thì Hàng long thập bát chưởng mới đầu có 28 chiêu là Hàng Long nhị thập bát chưởng. Về sau Tiêu Phong nhận thấy vẫn còn thiếu uy lực, lại có nhiều chiêu lập lại nên đã bổ sung, sửa chữa, rút gọn lại, tạo thành Hàng long thập bát chưởng, đồng thời khiến uy lực của bộ chưởng pháp tăng thêm.
Theo Kim Dung, bộ chưởng pháp này là võ công chí cương của thiên hạ, bao đời Bang chủ Cái Bang nhờ nó mà thành danh giang hồ, uy lực tùy theo người sử dụng. Những cao thủ về môn chưởng pháp này có thể kể là Tiêu Phong, Hồng Thất Công, Quách Tĩnh. Đến thời Gia Luật Tề thì không học nổi toàn bộ, Quách đại hiệp Quách Tĩnh đành phải gửi gắm hi vọng vào hậu thế trong thanh Ỷ Thiên kiếm[cần dẫn nguồn]. Tuy về sau có một số nhân vật tập luyện nhưng thành tựu không cao, vật đổi sao dời, Hàng long thập bát chưởng cũng theo đó mà thất truyền cùng với sự suy vi của Cái Bang.
[sửa] Chiêu thức Chiêu thức của bộ chưởng pháp này bao gồm:
1. Phi long tại thiên 飛 龍在天 hào Cửu ngũ của quẻ Kiền, có nghĩa: "rồng bay lên trời". Khí dương đã phát huy rực rỡ, hoặc con người đã khai mở được bản tâm để phát huy diệu dụng.
2. Kiến long tại điền 見龍在田 lời hào Cửu nhị của quẻ Kiền, có nghĩa là: "con rồng đã hiện ra trên mặt ruộng". Lúc này khí dương bắt đầu được khai mở.
3. Hồng Tiệm ư/vu lục 鴻漸於陸 lời hào Cửu tam quẻ Tiệm, có nghĩa "con chim hồng dần bay đến đậu trên gò đất". Quẻ Tiện còn có tên là Phong sơn tiệm, do được tạo thành bởi quẻ Cấn (là núi) ở dưới và quẻ Tốn (là gió) ở trên. Ý nghĩa tượng trưng của Hồng tiệm vu lục là hào Cửu tam có vị trí trên cùng của quẻ Cấn, là hào dương xử ở ngôi dương, cương kiện năng tiến, do đó mới có tượng "con chim hồng dần bay lên đậu trên gò đất".
4. Tiềm long vật dụng 潛龍勿用 lời hào Sơ cửu của quẻ Kiền, có nghĩa là: "như con rồng còn đang ẩn náu; không nên dùng". Khi khí dương còn đang tiềm tàng, hoặc bản thể của tâm chưa được phát lột thì không nên hành động.
5. Kháng long hữu hối 亢龍有悔 lời hào Thượng cửu của quẻ Kiền, có nghĩa: "con rồng lên cao quá sẽ có sự hối hận". Hào dương ở ngôi cao nhất của quẻ thuần dương, như để tâm chìm đắm vào chỗ lưu đãng, hư huyền xa rời mất cõi nhân sinh, ắt sẽ hối hận.
6. Lợi thiệp đại xuyên 利 涉大川 có nghĩa: "có lợi trong việc lội qua sông lớn", đây là lời thường dùng trong các quái từ, hào từ của Kinh Dịch. "Đại xuyên" là sông lớn, thường được dùng để ví với sự gian nan hiểm trở.
7. Đột như kỳ lai 突如其來 lời hào Cửu tứ quẻ Ly, có nghĩa: "thình lình ập tới". Trong hào Cửu tam thì sự đe dọa đã bắt đầu hiện ra dưới hình thức ngọn cầu vồng lấn át ánh nắng chiều, và đến hào Cửu tứ thì đột ngột chuyển thành hiện thực.
8. Chấn kinh bách lý 震驚百里 lời quái từ và lời thoán truyện của quẻ Chấn, có nghĩa: "tiếng sấm động vang xa hàng trăm dặm".
9. Hoặc dược ư uyên 或躍於淵 hào Cửu tứ của quẻ Kiền, có nghĩa: "hoặc nhảy vào vực thẳm". Đây là bước rẽ quyết định, con người từ bỏ thế giới rạch ròi của lý trí để đi vào thế giới huyền vi của tâm thức.
10. Song long thủ thủy 雙龍取水 Chúng tôi chưa tra cứu được xuất xứ, có lẽ tác giả chỉ thuận tay dùng các thành ngữ quen thuộc trong kho tàng văn học Trung Quốc mà đặt tên, theo kiểu các chiêu "Giao long hỷ thủy", "Lưỡng long tranh châu"... thường gặp các tiểu thuyết võ hiệp chứ không phải là câu được chọn ra từ Kinh Dịch.
11. Ngư dược ư uyên 魚躍於淵
12. Thời thừa lục long 時乘六龍
13. Mật vân bất vũ 密雲不雨
14. Tổn tắc hữu phu 損則有孚
15. Long chiến ư dã 龍戰於野 lời hào Thượng lục của quẻ Khôn có nghĩa: "rồng đánh nhau nơi đồng nội". Âm đã đến lúc cực thịnh nên tranh nhau với Dương.
16. Lý sương băng chí 履霜冰絰 tên đầy đủ là "lý sương, kiên băng chí", lời hào Sơ lục quẻ Khôn, có nghĩa: "dẫm trên sương, thì biết băng dày sắp đang tới". Đây là tượng của khí âm mới sinh.
17. Đê dương xúc phiên 羝羊觸藩
18. Thần long bãi vĩ 神龍擺尾 Nguyên trong Kinh Dịch không có câu này, mà chỉ có câu "Lý hổ vĩ, điệt nhân, hung" của hào Lục tam quẻ Lý, có nghĩa "đi sau cọp, đạp đuôi cọp, bị nó quay lại cắn, nguy hiểm". Kim Dung giải thích tên chiêu này được lấy từ câutrên, để tả khí thế mạnh mẽ và hung dữ của chiêu thức. Người đời sau thấy chữ "hổ" không hợp trong môn chưởng pháp "hàng long" nên đổi thành "Thần long bãi vĩ"
|
|
|
|
|
|
|
|
|